

Hồi đó, đâu như năm 62,63 gia đình tôi dọn lên ở trọ phố của bà Hai Đính trên Bình Nguyên, cách cầu Nhà thương khoảng 3 cây số. Ba má tôi vẫn bán bánh mì ở tiệm trong chợ thị xã Bến Tre. Sở dĩ dọn đi vì ở đậu nhà ông Sáu, em bà ngoại tôi, có chuyện xích mích sao đó. Nhà ông Sáu ở gần chợ Mới, nằm trong khu đất khoảng hơn 1 mẫu mà bà Tám tôi, em ông Sáu mua cho ông ở và thu tiền cho thuê đất hàng năm.
Nhà phố khá rộng, tôi nhớ có khoảng 6 căn. Ba má tôi ở căn bìa, bên phải từ ngoài nhìn vào. Khu nhà có một cổng lớn hai cánh nhưng không bao giờ đóng. Khoảng sân trước nhà có thể đậu được hai, ba chiếc ô tô. Phía sau nhà là một vùng rộng lớn có bụi tre, dừa và nhiều loại cây ăn trái khác, có con mương tiếp giáp với cánh đồng mênh mông. Một cầu sàn nước bắc trên mương, là nơi giặt đồ rửa chén, cũng có thể bơi tắm được. Thời đó dân số ít, người qua lại không nhiều nên khu phố rất an ninh, không bao giờ xảy ra trộm cắp.
Tôi thích mang cần câu ra cắm gần sàn nước, thỉnh thoảng ra thăm chừng, chứ không kiên nhẫn ngồi câu. Bữa nọ câu được con cá chạch, đem vô cho má tôi, bà cười:
- Con cá này chắc hết thời rồi mới gặp con. Cá chạch không khi nào ăn mồi câu đâu.
Lần khác, tôi làm cái vó bằng vải mùng, đem đặt xuống ao. Được một lúc thì kéo lên. Trong vó toàn là những con cá, con tép nhỏ xíu nên tôi trút thả.
Ngay mương nước có một cây keo lớn, từ tháng 2 đến tháng 6 thường cho nhiều trái. Trái keo chín có màu vàng hồng rất đẹp. Chúng tôi thích hái ăn, nghe vị chua chua ngọt ngọt. Lâu rồi không được ăn trái keo cũng thấy nhớ nhớ.

Từ dãy nhà sau đến con mương khoảng mười mấy bước chân. Có một giếng nước cách con mương chừng 5,6 mét. Nhà tôi xài nước giếng bơm. Lâu lâu máy bơm hư phải ra giếng xách nước vô xài. Giếng nhỏ nhưng xây rất đàng hoàng, có nắp đậy.
Khu vườn nhà bà Hai Đính khá rộng, bà chia ra thành từng mảnh, đào mương ngăn cách, muốn đi phải nhảy qua. Tôi chưa một lần đi sâu vào bên trong khu vườn, không biết nó tiếp giáp với vùng nào. Nhà bà Hai là một biệt thự cổ kiểu Pháp, rộng thênh thang, phía trước trồng đầy hoa kiểng. Khu trước sân nhà bà có mấy cây điệp, hè về đỏ rực đến nao lòng. Tôi hay qua đó để bắt chuồn chuồn, chúng đủ màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng, bay lượn lờ dưới tàng cây điệp mà ít khi nào tôi bắt được. Xài vợt cũng không dính con nào. Tôi mê những con chuồn chuồn đầy màu sắc đó lắm, chộp được một lúc cũng thả ra.
Nhà tôi, khu vực toilet có giếng trời, có máng xối để hứng nước mưa. Phía trong nhà bếp có lò nướng bánh mì, kích thước 1,5 x 2 mét, đốt bằng than củi. Mỗi ngày lúc 2 giờ chiều, má tôi nhồi một thau lớn bột mì, cho bột nổi vào, chờ khoảng 1 tiếng cho thau bột nổi vun lên thì bắt đầu làm bánh. Má nắn những con tôm cho vào xửng, lấy những hạt đậu đen gắn làm mắt. Tôi cũng phụ má gắn mắt tôm. Xong xuôi, má xếp từng con tôm vào vĩ lớn, phết màu rồi cho vào lò nướng. Khi bánh chín, mở lò ra, một mùi thơm ngọt ngào quyến rũ tỏa lên từ những chiếc bánh mì con tôm phổng phao, khiến mình chỉ muốn cắn ngay một miếng.
Nhà có dì Mười giúp việc, chuyên nấu nướng giặt giũ, vì ba má tôi suốt ngày lo buôn bán ngoài chợ. Má tôi coi dì Mười như chị em, giao tiếp ân cần như người một nhà. Tôi còn nhớ dì thường ăn sáng bằng cơm nguội với nước sôi, một món ăn “độc nhất vô nhị”. Tánh dì hiền hậu, nói năng nhỏ nhẹ, chị em tôi ai cũng thương, cũng quý.
Ba má tôi quá đông con nên buôn bán chỉ đủ ăn, chưa bao giờ giàu có. Lo cho bầy con hơn mười đứa ăn học thành tài là một gánh nặng luôn oằn trên vai, nhưng gia đình vô cùng hạnh phúc. Có lẽ cuộc đời của ba má chưa bao giờ mơ có được một căn nhà to rộng, khang trang. Giờ đây, nhiều lúc ngồi suy tư nghĩ ngợi, tôi thấy mình hình như cũng giống ba má, chưa từng mong mỏi sở hữu một căn nhà. Có lẽ đó mãi mãi là một ước mơ xa xỉ.
(13.11.2020)